Thiết kế và phát triển Yakovlev Yak-12

Yak-12 được thiết kế bởi đội thiết kế của Yakovlev để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của Không quân Xô viết vào năm 1944, cho một máy bay liên lạc và có thể sử dụng vào nhiều mục đích, để thay thế cho máy bay hai tầng cánh đã cũ là Po-2. Nó cũng được sử dụng trong hàng không dân dụng như một máy bay thay thế cho Yakovlev AIR-6 đã được đưa vào sử dụng từ năm 1934, được chế tạo với số lượng tương đối nhỏ. Đề nghị đầu tiên của Yakovlev là một máy bay 4 chỗ cánh cao có tên gọi là Yak-10 (đầu tiên có tên gọi là Yak-14, nhưng sau này Yak-14 lại được sử dụng để gọi tên một máy bay khác - Xem Yakovlev Yak-14 để biết thêm thông tin), nó chế tạo vào tháng 1 1945. Nó đã chiến thắng trong cuộc cạnh tranh với máy bay cánh thấp là Yak-13, chúng có cùng thiết kế thân, và một loạt 40 chiếc Yak-10 đã được sản xuất[1], động cơ được trang bị 1 chiếc loại Shvetsov M-11M (108 kW, 145 hp).

Yak-12

Vào năm 1947, Yakovlev phát triển một máy bay mới để thay thế cho Yak-10. Nó được lắp động cơ M-11FR mạnh hơn (119 kW, 160 hp), một đôi cánh mới, bộ bánh máy bay và khung máy bay đã được thay đổi lại hình dạng (bộ phận đuôi được làm thấp hơn). Máy bay mới được gọi tên là Yak-12, nó bay lần đầu tiên vào năm 1947 [1]. 788 chiếc thuộc phiên bản cơ bản đã được chế tạo, bao gồm máy bay quan sát quân sự, một số chiếc Yak-12S làm máy bay cứu thương, Yak-12SKh máy bay nông nghiệpYak-12GR thủy phi cơ. Một nét đặc trưng tiêu biểu cơ bản của Yak-12, giống như Yak-10, động cơ xylanh hình trụ có nắp đậy máy riêng lẻ. Nó là một máy bay được chế tạo bằng nhiều vật liệu khác nhau và có thể chở 1 hoặc 2 hành khách, ngoài 1 phi công.

Thế hệ mới của Yak-12 bắt đầu được sản xuất vào năm 1952, khởi đầu với Yak-12R. Nó được trang bị động cơ mới loại Ivchenko AI-14R (194 kW, 260 hp), được lắp kín trong thân máy bay, và được chế tạo hoàn toàn bằng kim loại. Diện tích cánh được tăng lên (từ 21.6 m² lên 23.8 m²). Phiên bản này có lực nâng cánh bé nhất trong tất cả máy bay do Yakovlev chế tạo, nhưng lại có khả năng thực hiện STOL tốt nhất (cánh cánh mất 52 m, hạ cánh cần 81 m).

Sau khi được làm dài ra để cải thiện phân phối trọng lượng, với cấu trúc được làm kiên cố hơn nữa và những thay đổi nhỏ khác, từ năm 1955, phiên bản Yak-12M đã được chế tạo. Một sự khác nhau rõ ràng là một cánh đuôi đứng cong đã được làm dài hơn. Phiên bản này trở nên phổ biến hơn, có trọng tải tối đa lớn hơn. Nó có sức chứa 1 phi công, 3 hành khách và có thể được lắp 2 hệ thống điều khiển để phù hợp với công việc bay huấn luyện, một cái cáng được sử dụng để cứu thương hoặc một thiết bị phun nông nghiệp cũng được trang bị. Nó trở thành phiên bản được sử dụng nhiều nhất.

Jak-12M

Thế hệ cuối cùng, được sản xuất từ năm 1957, đó là Yak-12A. Đây là một phiên bản có đường nét khí động học hoàn hảo, với một thân máy bay nhỏ hơn và một đôi cánh mới [1]. Phần vỏ che động cơ có đường kính nhỏ hơn. Đôi cánh có dáng hình chữ nhật được thêm vào với những đầu mút hình thang và thanh mỏng tự do, những thanh chống đơn được thay thế bằng thanh chống đôi. Ở Liên Xô, 3.801 chiếc Yak-12 thuộc mọi phiên bản đã được chế tạo (bao gồm 3.013 chiếc Yak-12R, M và A). Một máy bay hai tầng cánh thí nghiệm có tên gọi Yak-12B cũng được phát triển. nhưng không được sản xuất hàng loạt.

Yak-12M được Liên Xô chuyển giao công nghệ và giấy phép sản xuất cho Ba Lan từ năm 1956, và được sản xuất bởi nhà máy WSK-4 Okecie, với tên gọi là Jak-12M (tên phiên âm theo tiếng Ba Lan]]. Từ năm 1959, Yak-12A cũng được sản xuất ở Ba Lan với tên gọi là Jak-12A. 1.054 chiếc Jak-12M và 137 chiếc Jak-12A đã được chế tạo tại Ba Lan, phần lớn được xuất khẩu đến các nước trong Liên Xô. Vào năm 1958, sự phát triển Yak-12M xa hơn được thực hiện ở Ba Lan, với tên gọi là PZL-101 Gawron.

Yak-12 cũng còn được sản xuất ở Trung Quốc với tên gọi là Shenyang type 5.